Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư của nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới

|

Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư của nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới

Định hướng phát triển kinh tế và yêu cầu về vô;́n đầu tư cho giai đoạn mới
 
Đại hô;̣i Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cô;̣ng sản Việt Nam (tháng 01/2021) đã thô;ng qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hô;̣i (KT-XH) 10 năm 2021-2030 với mục tiêu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có cô;ng nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bì;nh cao, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao.

Để đáp ứng được nhu cầu vô;́n đầu tư phát triển, nền kinh tế sẽ phải huy đô;̣ng qua nhiều kênh khác nhau, như chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước, vô;́n hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vô;́n vay của các tổ chức tín dụng, vô;́n huy đô;̣ng qua thị trường chứng khoán… Tuy nhiên, trong bô;́i cảnh nền kinh tế Việt Nam giai đoạn sắp tới, có thể thấy rằng việc huy đô;̣ng nguồn vô;́n đầu tư qua các kênh nói trên cũng gặp nhiều khó khăn, xuất phát từ những lý do sau đây:
  • Đô;́i với nguồn vô;́n ngân sách nhà nước: Việc chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước sẽ được siết chặt để phù hợp với chủ trương của Đảng đã được đề ra tại Nghị quyết sô;́ 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ cô;ng để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Theo đó, kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước sẽ được siết chặt nhằm bảo đảm cân đô;́i ngân sách tích cực, giảm dần tỉ lệ bô;̣i chi, nguồn vô;́n ngân sách nhà nước sẽ chủ yếu tập trung đầu tư các cô;ng trình trọng điểm, có sức lan toả lớn và giải quyết các vấn đề phát triển của quốc gia, vùng và liên vùng, tạo thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài.
  • Đô;́i với nguồn vô;́n ODA: Với việc Việt Nam chính thức vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình từ năm 2010 và “tô;́t nghiệp IDA” từ tháng 7/2017, tức là khô;ng còn nằm trong nhóm những nước nhận được các khoản vay ưu đãi từ Hiệp hô;̣i Phát triển Quốc tế (IDA) thuộc Ngân hàng Thế giới nữa, nguồn vô;́n ODA đầu tư vào Việt Nam trong những năm tới sẽ giảm dần, tiến tới áp dụng các điều kiện vay vô;́n từ các quốc gia và định chế tài chính đa phương tương tự như các khoản vay thương mại.
  • Đô;́i với nguồn vô;́n của các tổ chức tín dụng: Theo định hướng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ tô;́i đa vô;́n ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn đang được giảm dần. Hiện tại, theo Thô;ng tư sô;́ 22/2019/TT-NHNN, các tổ chức tín dụng đang được sử dụng tô;́i đa 40% nguồn vô;́n ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, theo Thô;ng tư sô;́ 08/2020/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung mô;̣t sô;́ điều của Thô;ng tư sô;́ 22/2019/TT-NHNN (ban hành ngày 14/8/2020 và có hiệu lực từ ngày 01/10/2020), tỷ lệ này theo lô;̣ trình sẽ giảm xuống còn 37% từ ngày 01/10/2021 và 34% từ ngày 01/10/2022 để tiến tới mức 30% từ ngày 01/10/2023. Do đó, trong thời gian tới, việc vay vô;́n trung và dài hạn từ các tổ chức tín dụng để phục vụ nhu cầu đầu tư cũng trở nên khó khăn hơn.
  • Đô;́i với nguồn vô;́n huy đô;̣ng qua thị trường chứng khoán: Mặc dù huy đô;̣ng vô;́n đầu tư qua thị trường này là xu hướng tất yếu trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam, tỷ lệ huy đô;̣ng vô;́n qua thị trường chứng khoán vẫn còn ở mức thấp, việc huy đô;̣ng vô;́n qua thị trường này chưa trở thành mô;̣t kênh phổ biến được các nhà đầu tư ưa chuộng xuất phát từ trình đô;̣ phát triển của thị trường chứng khoán cũng như năng lực quản lý tài chính của các doanh nghiệp.
Bắt nguồn từ những lý do nêu trên, việc duy trì mô;̣t kênh tạo lập nguồn vô;́n đầu tư cho nền kinh tế thô;ng qua hoạt đô;̣ng TDĐT của Nhà nước là rất cần thiết nhằm đảm bảo vẫn đáp ứng được nhu cầu vô;́n đầu tư của nền kinh tế mà khô;ng tạo ra áp lực quá lớn cho các kênh cung ứng vô;́n còn lại hoặc khô;ng làm cho hoạt đô;̣ng của các kênh này đi chệnh định hướng đã được đặt ra.
 
Thực trạng khả năng cung ứng vô;́n TDĐT của Nhà nước

Ở Việt Nam hiện nay, nguồn vô;́n TDĐT của Nhà nước đang được cung ứng qua mô;̣t định chế tài chính đặc biệt của Chính phủ là Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB)2. Đô;́i tượng sử dụng vô;́n TDĐT của Nhà nước là các dự án thuộc danh mục do Chính phủ quy định từng thời kỳ, trong đó chủ yếu tập trung vào lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH, phát triển nô;ng nghiệp, nô;ng thô;n và phát triển cô;ng nghiệp. Ngoài ra, nguồn vô;́n TDĐT của Nhà nước còn tài trợ cho mô;̣t sô;́ loại dự án đầu tư được thực hiện tại mô;̣t sô;́ địa bàn thuộc diện ưu tiên theo chính sách của Nhà nước (địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hô;̣i khó khăn, đặc biệt khó khăn; vùng đồng bào dân tô;̣c Khơ me sinh sô;́ng tập trung, các xã thuộc Chương trình 135 và các xã biên giới thuộc Chương trình 120, các xã vùng bãi ngang…).

Kể từ khi thành lập (2006) đến nay, VDB đã cung ứng cho nền kinh tế mô;̣t lượng vô;́n TDĐT của Nhà nước rất lớn, đáp ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH cũng như nâng cao năng lực sản xuất của các ngành kinh tế. Tính chung trong cả giai đoạn 2006-2020, sô;́ vô;́n TDĐT của Nhà nước đã tài trợ cho các dự án qua VDB chiếm khoảng 0,5% GDP và gần 1,5% tổng vô;́n đầu tư toàn xã hô;̣i cùng thời kỳ.

Tuy nhiên, trong mô;̣t sô;́ năm gần đây, quy mô; tài trợ vô;́n TDĐT của Nhà nước hàng năm có xu hướng sụt giảm. Nếu như năm 2015, sô;́ vô;́n TDĐT của Nhà nước giải ngân trong năm là 25.947 tỷ đồng và dư nợ TDĐT cuối năm đạt tới 142.823 tỷ đồng, thì đến năm 2020, con sô;́ tương ứng chỉ còn lại lần lượt là 872 tỷ đồng và 91.986 tỷ đồng. So với năm 2015, dư nợ TDĐT của Nhà nước năm 2020 tại VDB chỉ bằng 64,4%.
 
 
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng nói trên chủ yếu là do Chính phủ thu hẹp danh mục đô;́i tượng sử dụng vô;́n TDĐT của Nhà nước qua từng giai đoạn3, đồng thời giảm dần các ưu đãi về điều kiện cho vay của nguồn vô;́n này, đặc biệt là lãi suất cho vay và bảo đảm tiền vay4. Bên cạnh đó, xuất phát từ khó khăn trong việc cân đô;́i ngân sách nhà nước, Chính phủ cũng khô;ng bô;́ trí đủ nguồn lực tài chính cho VDB tương xứng với nhiệm vụ thực thi chính sách TDĐT của Nhà nước, từ việc khô;ng cấp đủ vô;́n điều lệ cho đến việc khô;ng thanh toán kịp thời các khoản cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh hàng năm của VDB5. Ngoài ra, sự sụt giảm quy mô; cung ứng vô;́n TDĐT của Nhà nước còn bắt nguồn từ mô;̣t nguyên nhân rất quan trọng là sự hạn chế về thẩm quyền quyết định của VDB đô;́i với các vấn đề phát sinh trong hoạt đô;̣ng TDĐT, từ việc xác định kế hoạch tăng trưởng tín dụng và kế hoạch huy đô;̣ng vô;́n hàng năm cho đến việc phán quyết các vấn đề liên quan đến các dự án vay vô;́n (như lãi suất cho vay, bảo đảm tiền vay, mức vô;́n cho vay, biện pháp xử lý rủi ro…). Cụ thể:
  • Theo quy định về đầu tư cô;ng và quản lý nợ cô;ng, quy mô; cho vay vô;́n TDĐT của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thô;ng qua Kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển được giao cho VDB hằng năm; quy mô; phát hành trái phiếu để huy đô;̣ng vô;́n phục vụ hoạt đô;̣ng tín dụng này được quyết định thô;ng qua hạn mức bảo lãnh của Chính phủ cấp cho VDB hằng năm.
  • Theo quy định tại Nghị định sô;́ 75/2011/NĐ-CP, lãi suất cho vay đô;́i với các dự án được thực hiện theo lãi suất do Bô;̣ Tài chính quyết định, việc cho vay vượt 70% tổng mức đầu tư của dự án phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định.
  • Theo quy định tại Nghị định sô;́ 32/2017/NĐ-CP, các dự án có nhu cầu vay vô;́n quá 15 năm hoặc khô;ng đáp ứng đủ yêu cầu chung về bảo đảm tiền vay phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Theo quy định tại Nghị định sô;́ 75/2011/NĐ-CP và Nghị định sô;́ 32/2017/NĐ-CP, các biện pháp xử lý rủi ro vô;́n TDĐT của Nhà nước mà VDB được quyết định chủ yếu là điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ, còn các biện pháp khác (khoanh nợ, xoá nợ gô;́c, xoá nợ lãi, bán nợ…) phải được quyết định bởi Bô;̣ trưởng Bô;̣ Tài chính hoặc Thủ tướng Chính phủ…

 
Một sô;́ đề xuất đổi mới hoạt động TDĐT của Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
Kết quả phân tích ở các phần trước của bài viết đã chỉ ra rằng, yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn sắp tới đòi hỏi mô;̣t lượng vô;́n rất lớn, trong đó bao gồm cả vô;́n TDĐT của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai hoạt đô;̣ng TDĐT của Nhà nước những năm gần đây cho thấy, để có thể mở rô;̣ng khả năng cung ứng vô;́n cho nền kinh tế thì hoạt đô;̣ng TDĐT của Nhà nước cần phải được đổi mới trên nhiều phương diện, bao gồm cả chính sách về TDĐT của Nhà nước cũng như quy định về tổ chức và hoạt đô;̣ng của cơ quan thực thi chính sách này nhằm khắc phục những bất cập đã được chỉ ra ở trên.

Với yêu cầu đó, VDB và các cơ quan quản lý nhà nước cần phô;́i hợp nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ thực hiện mô;̣t sô;́ giải pháp sau đây:
  • Mở rô;̣ng danh mục đô;́i tượng vay vô;́n TDĐT của Nhà nước theo hướng xem xét bổ sung mô;̣t sô;́ loại hình dự án thuộc các lĩnh vực được ưu tiên phát triển theo Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021-2030, bên cạnh các dự án thuộc danh mục đô;́i tượng vay vô;́n TDĐT của Nhà nước được quy định tại Nghị định sô;́ 32/2017/NĐ-CP hiện nay.
  • Sửa đổi các quy định về điều kiện vay vô;́n TDĐT của Nhà nước theo hướng cho phép VDB được thực hiện chính sách phân biệt lãi suất cho vay và tỷ lệ bảo đảm tiền vay theo khách hàng vay vô;́n, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có uy tín và có dự án hiệu quả được vay vô;́n với lãi suất thấp hơn và tỷ lệ bảo đảm tiền vay nhỏ hơn so với các doanh nghiệp khác. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc khô;ng áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay đô;́i với mỗi khoản vay do VDB quyết định và chịu trách nhiệm theo mức đô;̣ rủi ro của khoản vay.
  • Ưu tiên để VDB được huy đô;̣ng các nguồn vô;́n có lãi suất thấp từ các quỹ tài chính nhà nước hoặc xem xét cấp bảo lãnh để VDB huy đô;̣ng vô;́n của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế trong trường hợp VDB tìm được nguồn vô;́n giá rẻ từ các tổ chức này; đồng thời tạo điều kiện cho VDB phát hành trái phiếu kỳ hạn phù hợp với yêu cầu cho vay đô;́i với các dự án đầu tư có thời hạn thu hồi vô;́n dài thuộc đô;́i tượng sử dụng vô;́n TDĐT của Nhà nước.
  • Bô;́ trí ngân sách nhà nước để cấp đủ vô;́n điều lệ của VDB theo lô;̣ trình đã được phê duyệt tại Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 nhằm sớm đạt mức vô;́n điều lệ theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; thanh toán đủ sô;́ cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý còn thiếu cho VDB trong thời gian qua, đồng thời khô;ng để tình trạng nợ đọng tương tự xảy ra trong các năm tiếp theo.
  • Đổi mới mô; hình hoạt đô;̣ng của VDB theo hướng nâng cao tính tự chủ trên cơ sở tính đủ chi phí huy đô;̣ng vô;́n và các chi phí quản lý hoạt đô;̣ng vào lãi suất cho vay cùng với việc cho phép VDB cung ứng thêm mô;̣t sô;́ dịch vụ ngân hàng có thu phí để tạo nguồn thu nhằm giảm dần sô;́ cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ ngân sách nhà nước; đồng thời phân quyền mạnh hơn cho VDB trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt đô;̣ng tín dụng TDĐT của Nhà nước tương ứng với khả năng tự chủ về tài chính.
Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách như trên, để đáp ứng yêu cầu cung ứng vô;́n đầu tư cho nền kinh tế thì bản thân VDB, với tư cách là cơ quan thực thi chính sách TDĐT của Nhà nước, cũng cần thực hiện các biện pháp để nâng cao năng lực của mình về mọi mặt, từ chất lượng nhân lực cho đến nền tảng cô;ng nghệ cũng như trình đô;̣ quản lý. Chỉ trong trường hợp đó, hoạt đô;̣ng cung ứng vô;́n TDĐT của Nhà nước qua VDB mới có thể được mở rô;̣ng quy mô; mà khô;ng gây ra rủi ro, tổn thất cho VDB hay gánh nặng cho ngân sách nhà nước./. 
TS. Nguyễn Cảnh Hiệp
Ngân hàng Phát triển Việt Nam
 
  
Tài liệu tham khảo:
  1. Đảng Cô;̣ng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bô;̣ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ cô;ng để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
  2. Đảng Cô;̣ng sản Việt Nam (2021), Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021-2030 (trong các văn kiện trình Đại hô;̣i XIII của Đảng)
  3. Hạnh Nguyễn (2021), “Tỷ lệ vốn huy đô;̣ng qua thị trường chứng khoán còn thấp”, Báo điện tử VietnamPlus TTXVN, truy cập ngày 30/3/2021 tại https://www.vietnamplus.vn/ty-le-von-huy-dong-qua-thi-truong-chung-khoan-con-thap/702258. vnp
  4. Nghị định số 151/2006/NĐ-CP của Chính phủ về TDĐT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước
  1. Nghị định số 32/2017/NĐ-CP của Chính phủ về TDĐT của Nhà nước
  2. Nghị định số 75/2011/NĐ-CP của Chính phủ về TDĐT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước
  3. Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”
  4. Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
  5. Trần Văn Thọ (2017), “Tiến tới tốt nghiệp ODA toàn phần”, Tạp chí Tia Sáng, truy cập ngày 20/4/2021 tại http://tiasang. com.vn/-dien-dan/Tien-toi-%E2%80%9Ctot-nghiep%E2%80%9D-ODA-toan-phan-10748
  6. Thô;ng tư số 22/2019/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt đô;̣ng của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thô;ng tư số 08/2020/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung mô;̣t số điều của Thô;ng tư số 22/2019/TT-NHNN.
  7. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo số 245/BC-TCTK ngày 27/12/2020 về tình hình KT-XH quý IV và năm 2020, truy cập ngày 20/6/2021 tại http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=48535&idcm=293
  8. VDB (2016-2021), Báo cáo tổng kết hoạt đô;̣ng các năm 2015-2020
 
 
 
Ứng dụng giải trí Three Monkeys